binh-giang-bai-tho-bao-kinh-canh-gioi-43-cua-nguyen-trai

Kho tài liệu văn học và bài tập làm văn hàng đầu Việt Nam

Bình giảng bài thơ Bảo kính


Kho tài liệu văn học và bài tập làm văn hàng đầu Việt Nam

Bình giảng bài thơ Bảo kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi

Hà Anh
04/09/2018 Bài văn hay

1,160 Views

Bình giảng bài thơ Bảo kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi

Hướng dẫn

Tham khảo bài văn hay bình giảng về bài thơ Bảo kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi của những em học sinh lớp 10 chuyên văn trường THPT Lê Hồng Phong.

Đề bài: Bình giảng bài thơ Bảo kính cảnh giới 43 của Nguyễn Trãi

Bài làm 1:

Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến vơi những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ cảnh ngày hè với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.

Những năm tháng cuối đời là chặng đường đầy gian khổ, thử thách đổi với Nguyễn Trãi. Sự nghiệp củng cố, xây dựng triều đình nhà Lê của ông chưa được thực hiện trọn vẹn. Chốn triều đình đầy hiềm thù, nghi kị. Nơi thôn dã Côn Sơn chỉ là chỗ dừng chân bắt buộc đối với một con người khát khao cống hiến đời mình cho đất nước, dân tộc như Nguyễn Trãi. Thế nhưng, trong thơ ông, bao giờ ta cũng bắt gặp một phong thái ung dung, tự tại, một trái tim yêu đời, yêu người luôn rộng mở, nhạy cảm.

Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:

Rồi ở đây khiến cho người ta nghĩ rằng nó là từ để chỉ liên kết mối liên hệ ngay sau đó những thật ra thì không phải. “rồi” ở đây không giống như chúng ta nghĩ, nó không phải là hình rồi sau đó diễn ra cái gì, làm xong rồi hay thế nào mà nó là một từ để chỉ trạng thái. Nói cách khác thì ở đây chính là tính từ chỉ trạng thái của con người. “ rồi” trái ngược với vất vả. có việc làm. Thật vậy ở đây nhà thơ đã cố tình đẩy nó lên đầu câu nhầm thể hiện sự an nhàn của mình. Vì thế nó chính là ý đồ nghệ thuật của nhà thơ. Chính những ngày tháng an nhàn khi về quê ở ẩn đã khiến cho nhà thơ cảm thấy không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát. Đó là một cơn gió của ngày thường nhưng chỉ có thiên nhiên quê hương mới có được sự mát mẻ ấy. qua câu thơ đầu ta cảm nhận được một tâm hồn yêu cảnh vật thiên nhiên của nhà thơ. Chính nó đã làm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.

Đến ba câu thơ sau những hình ảnh đầy màu sắc gần liền với những ngày hè thật sự đẹp và rực rỡ như chính những gì chúng ta liên tưởng về nó:

Đó chính là những câu thơ đẹp nhất trong bài, chỉ với ba câu thơ ấy mà toàn bộ những gì là hương là sắc của mùa hè được hiện lên thật sinh động và hấp dẫn. Nó như đốt cháy con mắt người xem bơi những gam màu nóng đặc trưng của mùa hè. Đó chính là màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh xen. Những gam màu ấy kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng. Đồng thời qua đó ta thấu được sự sinh sôi nảy nở manh mẽ trong mùa hè. Nếu như mùa xuân sinh sôi là điều kiện cho mọi vật bắt đầu sự sống thì mùa hè là màu của sinh trưởng phát triển lớn lên. Chính vì thế những động từ kia đã mang đến cho ta thấy được sự phát triển đó. Một bức họa đồng quê với những gì của hương đồng gió nội mang đến cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”. thật khá khen cho động từ tiễn, tại sao nhà thơ không nói là đưa hương hay là bay hương mà lại là tiễn. Tiễn ở đây nhằm nói đên sự phát hương của bông hoa sen ấy. nó tỏa ngát đi những ban phát mùi hương đến với không gian quê hương. Thế còn màu của hoa lựu làm cho ta nhớ đến một câu thơ cũng diễn tả màu đỏ rực ấy rất hay đó là:

“Đầu tượng lửa lựu lập lòe đâm bông”

 

Mùa hè không chỉ mang đến cho tác giả những cảnh thiên nhiên đặc trưng mà còn mang đến những phiên chợ những làng ngư phủ. Có thể nói chính những thiên nhiên kia đa tạo điều kiện cho cuộc sống của con người hiện lên thật sinh động:

Đó chính là sự ồn ào náo nhiệt đến đông vui của làng ngư phủ nọ. Những chợ cá vang lên những người mua người bán thật là lao xao cả một khoảng không gian. Ta thây qua hai câu thơ hình ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu. Cuộc sống rất đỗi bình dị thân quen. Và đâu đây tiếng ve gọi hè sao mà dắng dỏi đến thế.

Đến hai câu thơ cuối nhà thơ thể hiện ước nguyện khát khao của mình:

Ngu cầm chính là cây đàn của vua Ngu Thuấn cây đàn ấy mang lại cho nhân dân cuộc sống âm no hạnh phúc. Và ở đây Nguyễn Trãi cũng mong sao được mượn được vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Qua ước nguyện ấy ta thấy được tấm lòng yêu nước thương dân của nhà thơ Nguyễn Trãi lớn như thế nào. Có thể nói không chỉ khi làm quan mà đến khi về hưu cáo quan ở ẩn Nguyễn Trãi vẫn một lòng lo cho dân chúng. Luôn mong họ có một cuộc sống bình yên. Vì theo ông “ việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhàn dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng: mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

– HẾT –

Bài làm 2:

Thơ Quê Hương của Nguyễn Bỉnh Khiêm nói nhiều đến sự an phận, trầm tĩnh của một con người hành ít tàng nhiều, cuộc đời hầu như gắn liền với thôn dã. Nguyễn Du hẳn trong tâm trí người đọc nỗi đau day dứt, của kẻ xa quê, lênh đênh góc bể chân trời. Thơ Nguyễn Trãi khác hẳn. Con người anh hùng đó, dù buồn phiền, chán nản cho sự nghiệp kinh bang tế thế không trọn vẹn vẫn không nhìn quê hương, nơi dừng chân cuối cùng của đời mình, như một lồng sắt giam lỏng cánh chim bằng. Tấm lòng ông đối với quê hương bao giờ cũng chân thành, hồn hậu, trầm lắng nhưng mãnh liệt. Nguyễn Trãi hội nhập rất nhanh vào đời sống thôn dã tĩnh lặng. Ông không bức bối, buồn phiền nhiều mà còn rất vui, rất tự hào khi thốt lên: Quê cũ nhà ta thiếu của nào (Mạn thuật 13), khi gọi mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông là bạn, khi cho rằng dòng suối ở Côn Sơn là nơi có thể giúp mình gột rửa hết mọi vẩn đục của cuộc đời quan trường. Cái “tâm” của nhà thơ bao giờ cũng trong sáng, vững chãi trước đổi thay dâu bể. Bài Bảo kính cảnh giới 43 là một ví dụ tiêu biểu cho cái “tâm” đó.

Những năm tháng cuối đời là chặng đường đầy gian khổ, thử thách đổi với Nguyễn Trãi. Sự nghiệp củng cố, xây dựng triều đình nhà Lê của ông chưa được thực hiện trọn vẹn. Chốn triều đình đầy hiềm thù, nghi kị. Nơi thôn dã Côn Sơn chỉ là chỗ dừng chân bắt buộc đối với một con người khát khao cống hiến đời mình cho đất nước, dân tộc như Nguyễn Trãi. Thế nhưng, trong thơ ông, bao giờ ta cũng bắt gặp một phong thái ung dung, tự tại, một trái tim yêu đời, yêu người luôn rộng mở, nhạy cảm. Chính nhịp điệu của câu thơ đầu tiên trong Bảo kính cảnh giới 43 giúp ta nhận ra phong thái rất riêng đó: Rỗi hóng mát thuở ngày trường.

Nhịp cắt của câu thơ gợi từng bước đi khoan thai, đĩnh đạc, đầy tự tin và tâm thế nhẹ nhõm, thoải mái của Nguyễn Trãi. Con người đó, tuổi đã cao, thảnh thơi, tự hào, thỏa mãn về sự nghiệp mà mình thực hiện được thời trai trẻ, giờ thì tạm rỗi rảnh, thong dong hóng mát, hòa mình vào cảnh đẹp, vào cuộc đời để thêm yêu đời, yêu cuộc sống. Phong thái ung dung này hiện diện trong rất nhiều câu thơ khác của Nguyễn Trãi. Nhà thơ Đủng đỉnh chiều hôm dắt tay (Mạn thuật), Thưởng mai về đạp bóng trăng (Ngôn chí 15), ngồi trên thuyền dạo chơi trong cái thế hứng khởi của gió, của trăng:

(Tự thuật 31)

Đó là tính cách riêng của Nguyễn Trãi, một người luôn chủ động, tự tin trước mọi hoàn cảnh dù khó khăn buồn phiền nhất mà quả thật là ông đang buồn phiền! Cái thuở ngày trường được nhấn mạnh ở đây không hẳn chỉ là để xác định khoảng thời gian mùa hè như một hiện tượng địa lí. Nó là khoảng thời gian tâm tưởng. Nó bị chi phối bởi cảm giác, bởi nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ trong hoàn cảnh bị bắt buộc ở ẩn. Vì là những ngày tháng vô vị, chờ đợi nên nó thăm thẳm, dằng dặc, nó dài một cách khác thường! Dù vậy, với bản lĩnh, nghị lực mạnh mẽ của mình nhà thơ vẫn có thể bình tĩnh, thoải mái trong cái tư thế của một người thưởng ngoạn. Phẩm chất đẹp đẽ đó chỉ có thể được hình thành trong quá trình vượt qua bao nỗi thăng trầm gian nan của một người anh hùng.

Màu xanh lục của cây hòe xum xuê cành lá được nhấn mạnh ngay ở câu thứ 2 và đó là cái nền màu chủ yếu trong bức tranh hè của Nguyễn Trãi. Nó đập vào mắt người đọc đầu tiên bằng ấn tượng mãnh liệt của một màu xanh đậm đặc, của một sức sống đang đùn lên, che mát của một khoảng sân. Có thể cảm nhận được sức sống đó bằng hai từ có mối liên hệ tăng tiến được dồn vào một câu thơ: đùn đùn, rợp. Cảm giác về cái gay gắt của nắng hè không còn nữa, cái rực rỡ của nắng chỉ làm cho màu xanh lục thêm tươi tắn, lóng lánh. Dùng gam màu lạnh mà vẫn tạo cảm giác ấm cúng, sảng khoái bởi lẽ Nguyễn Trãi đă chấm phá trên liền màu ấy những bông hoa lựu đỏ thẫm chợt bật lên bằng một từ phun giàu sức gợi tả và cũng nằm trong mối quan hệ với hai từ độc đáo ở câu trên. Sự tương phản giữa màu đỏ của lựu và màu xanh của hòe tạo tiếp một ấn tượng mới mẻ về sự vận động của màu sắc, sự sống mãnh liệt của hoa lá. Chúng tranh nhaụ đùn ra, phùn ra tạo một cảm giác choáng ngợp! Hồ Xuân Hương cũng là một nhà thơ nổi tiếng với tài sử dụng màu sắc tương phản gay gắt mà sống động lạ thường: Cửa son đỏ loét bùm bum nóc – Bật đá xanh rì lún phún rêu (Đèo Ba Dội), hay Một trái trăng thu chín mõm mòm – Nảy vừng quê đỏ, đỏ lòm lom (Hỏi trăng 1). Đó là thứ màu không nhàn nhạt như thuốc nước mà đậm đặc, thô ráp ấn tượng chân thật và có sức tác động mạnh mẽ.

Câu 4 thể hiện sự cảm nhận tinh tế của tác giả trong khung cảnh tĩnh lặng của bức tranh. Quả thật, cảnh phải thật sự tĩnh lặng, người làm thơ phải thật sự đắm mình trong khung cảnh êm đềm mới nhận ra hương sen chỉ còn thoang thoảng đâu đó giữa không gian cuối hè. Tĩnh nhưng thật là (lộng bởi tác giả dùng tĩnh để tả động, dùng thuở êm vắng của ngày trường để tả sức sống của thiên nhiên. Đến câu 5, 6 tác giả lại dùng động để tả tĩnh, khắc họa tiếng lao xao xa xa của người, tiếng dắng dỏi của cầm ve. Những âm thanh ấy lại là bước chuyển, gọi tiếp cho tác giả liên tưởng đến một âm thanh khác, không có thực. Nó nằm trong mơ ước của nhà thơ. Đó là tiếng đàn. Tiếng đàn ấy lại mở tiếp cho người đọc hình dung được những âm thanh khác: tiếng cười nói hạnh phúc của những người dân sống trong cảnh ấm no, thanh bình. Và cũng chỉ có được sự vắng lặng thanh bình, mơ ước của nhà thơ mới được gợi mở, ngân vang thành một tiếng đàn! Nét tinh tế của bài thơ là vậy.

Từ mơ ước đó, ta thấy được cái tâm trong sáng, chân thành luôn chan hòa trong những bài thơ viết về quê hương của ức Trai.

– HẾT –

Tham khảo thêm những bài văn hay lớp 10 được chọn lọc trong các kì thi học sinh giỏi văn toàn quốc chỉ có tại Baivanhay.com.

Theo Baivanhay.com

22/01/2022

22/01/2022

22/01/2022

06/01/2022

06/01/2022

06/01/2022

Soạn bài Sơn tinh Thủy tinh

Bài tập làm văn soạn bài Sơn tinh Thủy tinh lớp 6 bao gồm các …

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *